Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân

      Như Hồ Chí Minh đã nói: “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Có như vậy đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.

      Chính vì lẽ đó mà chúng em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân”. Đây là một đề tài hay, có nội dung và ý nghĩa to lớn, nó còn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ. Bài học quý báu cho quá trình dựng nước và giữ nước. Bài tiểu luận của chúng em gồm bốn chương chính như sau:

      I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

      II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

      III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam.

      IV. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân.

doc 30 trang thamphan 30/12/2022 3240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • doctieu_luan_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_dai_doan_ket_dan_toc_va_su.doc

Nội dung text: Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta, liên hệ bản thân

  1. Về mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam,Người đã khẳng định: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lự lượng tất thắng. Hiện nay đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hopwj với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc miền Bắc và trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, nhân dân cả nước ta đã thực hiện được di chúc của Bác Hồ: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau khi Tổ quốc được thống nhất, Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết toàn dân bước vào giai đoạn mới- cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí minh, vấn đề dân tộc không chỉ là vấn đề của cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn là vấn đề của cahcs mạng xã hội chủ nghĩa. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đè lớn vẫn còn tồn tại lâu dài, không thể giải quyết trong một thời gian ngắn theo những mong chủ quan và những phương pháp, cách thức không phù hợp. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích từ rất sớm, xuất phát từ tực tiễn Việt Nam, từ sự hiểu biết sâu sắc dân tộc và đất nước mình. Đây thực sự là sự phân biệt giữa quan điểm giai cấp đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin với quan điểm của giai cấp lệch lạc, “tả khuynh” , đã dẫn đến những tổn thất không nhỏ cho cách mạnh ở nhiều nước. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người đã dày công xây dựng, vun đắp cho sự lớn mạnh và sự phát triển của mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam. Đánh giá vai trò của mặt trận không chỉ trong quá khứ mà còn xa về tương lai, Người đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cachs mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lương to lớn của cách mạng Việt Nam”. Tại Đại hội thống nhât Việt Minh – Liên Việt ( ngày 3-3-1951) Người đã phát biểu: “ Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của đai hội Liên Việt – Việt Minh thống nhất. Lòng sung sướng ấy là chung của cả toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả.Một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó dâng ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai “ trường xuân bất lão’. Vì vậy cho nên long tôi sung sương vô cùng”. 15
  2. Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, ngày 27-11-1993, Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII đẫ ra nghị quyết 07/NQ-TW “ Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết này đã phản ánh tập trung sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới. Tại đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, vấn đề đại đoàn kết dân tộc đã được đặt ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngày 26-6-1999, lần đầu tiên Luật về mặt trận tổ quốc Việt Nam đã được ban hành, trong đó khẳng định : Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thong nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đây thực sự là bước phát triển mới của mặt trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân để chuẩn bị đưa đất nước tiến vào thế kỉ XXI. 3. Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn đát nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. - Đại đoàn kết dân tộc trong thời kì hiện nay phải được củng cố và phát triển: + Nhằm rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật và công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới; thực hiện được điều mong muốn của Bác Hồ làm cho đất nước ta có thể “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”, là “xây dựng một nước Viêt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ , giàu mạnh”; hay như Đảng ta đã nêu mục tiêu là : “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”. + Nhằm khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, không chậm chạp trong khi thế giới đang biến đổi theo gia tốc, phát huy tinh thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ, vượt qua mọi thách thức. 17
  3. tắc, mềm dẻo về sách lược”, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập,hợp tác và phát triển. Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết dân tộc trước hết là nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc tế là nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng them. Sự vật luôn luôn vận động và phát triển. Hoàn cảnh sẽ không ngừng đổi thay theo các quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn đang biến đổi của đất nước trên con đường đi vào thế kỉ XXI. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. CHƯƠNG IV: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN. 1. Thực trạng chung. Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nôi lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao. Mặt khác, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau. 19
  4. dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Có thể khẳng định: chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng đã thực sự là một bộ phận của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước. Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do: Đảng ta chưa kịp thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội trong quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổ chức Đảng, chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng; một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên thoái hoá, biến chất, không thực hiện được vai trò tiên phong gương mẫu. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. cụ thể: Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ 3. Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh: Lý luận gắn liền với thực tiễn: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm 21
  5. - Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế. - Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế. 5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay: a. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi đảng, nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số Trong công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tính chất là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành viên, đã phối hợp với chính quyền giải quyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng, giám sát, bảo vệ đảng và chính quyền. Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp ngày càng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải chủ động góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ 23
  6. tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. - Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài. c. Những bước làm cụ thể hơn: Xác đinh hướng đi: Đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố quyết định cho phát triển Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta. Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai Đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt. Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực 25
  7. - Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác. - Đội ngũ nhân lực có trình độ cao. - Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tạo thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm. - Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân chủ của một xã hội càng cao. Dân phải tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế- xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Mọi âm mưu và hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất nước, cần được lên án. -Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. Phát triển con người: Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội. Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng. Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần kinh tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là trong điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá và tự động hoá ngày càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có những sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi hỏi và rèn luyện người công nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công nhân. Đó là tính kỷ luật, chính xác, tính tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó cũng là những phẩm chất mà người cán bộ, 27
  8. KẾT LUẬN Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với 20 năm trước. Đại hội IX và X của Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 29